Đảng Cộng sản Việt Nam - Chặng đường 87 xây dựng và phát triển (03/02/1930 - 03/02/2017)

I. QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP, XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 mở ra bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam

Năm 1858, thực dân Pháp nổ phát súng đầu tiên ở Đà Nẵng, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược và thôn tính nước ta. Triều đình nhà Nguyễn nhu nhược, yếu thế không đủ sức chống lại thực dân Pháp. Ngày 6/6/1884, triều đình nhà Nguyễn ký Hiệp ước Giáp Tuất (Hiệp ước Patơnốt) đầu hàng, dâng nước ta cho thực dân Pháp. Từ đó, thực dân Pháp áp đặt chế độ cai trị chuyên chế, hà khắc và tàn bạo cùng chế độ phong kiến suy tàn công khai cấu kết và làm tay sai cho giặc, nhân dân Việt Nam sống kiếp lầm than, phải gánh chịu ách bóc lột một cổ hai tròng. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bè lũ tay sai ngày càng gay gắt, khát vọng đấu tranh giành độc lập dân tộc ngày càng trở nên bức thiết. Các cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực dân Pháp liên tiếp diễn ra nhưng đều thất bại, cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

Chứng kiến cảnh mất nước, nhân dân sống một cuộc đời lầm than cơ cực, Nguyễn Tất Thành (tức Nguyễn Ái Quốc) đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Năm 1919, Người bắt gặp bản Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I.Lênin, từ đó Người đã tin tưởng và đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người Cộng sản đầu tiên của cách mạng Việt Nam. Người ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng, lý luận và tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cuối năm 1929 và đầu năm 1930, ba tổ chức Cộng sản ở Việt Nam đã lần lượt ra đời - điều kiện thành lập Đảng đã chín muồi. Ngày 3/2/1930, tại Hương Cảng (Trung Quốc), được sự uỷ nhiệm của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản thành một đảng duy nhất và lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam gồm Chánh cương vắn tắtSách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo. Chánh cương vắn tắt đã đề ra mục tiêu cụ thể của cách mạng Việt Nam đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người đồng thời vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.

Tháng 10 năm 1930, tại Hội nghị Trung ương lần thứ nhất Luận cương Chính trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo được thông qua. Kế thừa cương lĩnh đầu tiên của Đảng, Luận cương Chính trị xác định cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, giải phóng dân tộc và và tiến lên giai đoạn xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa (cách mạng xã hội chủ nghĩa). Luận cương cũng xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, cần phải tăng cường đoàn kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, kể cả nhân dân Pháp.

Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đề ra Cương lĩnh đúng đắn, vạch ra con đường cứu nước khác về chất so với những con đường cứu nước do những nhà yêu nước đương thời vạch ra và đã bị bế tắc, thất bại. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối chính trị, về con đường cứu nước, cứu dân. Đánh giá ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết“Việc thành lập Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.

II. CHẶNG ĐƯỜNG 87 NĂM ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG GIÀNH THẮNG LỢI VĨ ĐẠI, KHÔNG NGỪNG TRƯỞNG THÀNH VÀ LỚN MẠNH

1. Thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)

- Với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lần lượt ba cao trào cách mạng có ý nghĩa như 3 cuộc tổng diễn tập chuẩn bị cho cuộc Cách mạng Tháng Tám giành chính quyền về tay nhân dân: Cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939) và cao trào giải phóng dân tộc dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945 (1939 - 1945). Đó là quá trình đấu tranh cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ của Đảng và dân tộc ta. Thực tiễn 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc.

- Đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc bắt liên lạc với Đảng và chuẩn bị về nước. Ngày 28-1-1941, Người trở về Tổ quốc và trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 8-2-1941, Người tới Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng). Từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Pác Bó. Từ sự phân tích diễn biến của chiến tranh thế giới và tình hình trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5-1941 có ý nghĩa lịch sử to lớn. Hội nghị đã hoàn chỉnh việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược nhằm giải quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là độc lập dân tộc và đề ra nhiều chủ trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy. Cùng với Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

- Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mở ra thời đại mới - thời đại Hồ Chí Minh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công dẫn đến sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Đó là sự kiện quan trọng bậc nhất trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của chủ nghĩa Mác-Lênin ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình của thế kỷ XX.

2. Thời kỳ bảo vệ và phát triển thành quả Cách mạng Tháng Tám, kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại (1945-1954)

Ngày 2/9/1945, giữa quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc lời Tuyên ngôn độc lập, công bố với toàn thế giới sự ra đời của Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, khẳng định nhân dân Việt Nam có quyền được sống trong tự do, hạnh phúc. Tuy nhiên, trong hai năm 1945-1946, chính quyền non trẻ phải đối diện với muôn vàn khó khăn, thách thức, vừa chống giặc đói, giặc dốt, vừa chống giặc ngoại xâm. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân vượt qua với phương châm vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả của Cách mạng tháng Tám; thực hành sách lược khôn khéo, lúc thì hoà hoãn với Tưởng để đánh thực dân Pháp, lúc thì hoà hoãn với Pháp để đuổi Tưởng, thực hiện sự nhân nhượng có nguyên tắc và triệt để lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Chính quyền nhân dân được xây dựng và củng cố vững chắc qua kỳ tổng tuyển cử, bầu cử Quốc hội (6/1/1946) và xây dựng Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946) của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bè bạn quốc tế, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, nhất là việc đập tan kế hoạch Nava với chiến thắng Đông - Xuân năm 1953-1954, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954. Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ cùng với việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên theo con đường XHCN, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

3. Thời kỳ trường kỳ kháng chiến, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và thống nhất non sông (1954-1975)

Từ năm 1954 đến năm 1975, Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đây là đặc điểm mang tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, cùng với mục tiêu độc lập dân tộc, mục tiêu xã hội chủ nghĩa được đặt ra trực tiếp.

- Ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gơnevơ, hất chân thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, bảo vệ nền độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Đương đầu với một để quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, chúng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc và là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính chất thời đại sâu sắc.

- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc đã thu được những thành tựu quan trọng. Vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, miền Bắc đã nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ; xây dựng hậu phương vững mạnh, trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, bảo đảm mọi mặt cho tiền tuyến đánh thắng.

4. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay

Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này bao gồm hai giai đoạn chủ yếu:

* Từ 1975 đến 1986:

- Sau chiến tranh, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn. Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, trước yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm. Trong việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết sáng kiến từ thực tiễn của nhân dân, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, thể hiện qua các mốc sau: Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6, khoá IV (tháng 8/1979); Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; Quyết định 25/CP ngày 21/1/1981 của Chính phủ về đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh; Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khoá V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất hàng hoá; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 9/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới. Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

* Từ 1986 đến nay:

- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Từ đó đến nay, Đảng ta tiếp tục phát triển tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn thiện.

- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, qua ba mươi năm đổi mới, đất nước ta đã giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đảng ta lãnh đạo tiến hành kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thu được những kết quả tích cực. Đất nước vượt qua khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực (1997 - 1998); khắc phục có hiệu quả ảnh hưởng của khủng hoàng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay; thực hiện có hiệu quả mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, vượt qua ngưỡng nước nghèo chậm phát triển. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Chính trị, xã hội ổn định, an ninh, quốc phòng được giữ vững. Vai trò và vị thế của nước ta trên trường quốc tế ngày càng nâng cao.

- Năm 2016, Đại hội lần thứ XII của Đảng đã diễn ra thành công và tốt đẹp, thể hiện sự thống nhất ý chí và quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong những năm tới, thực hiện bằng được mục tiêu tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hoà bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước. Nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới”.

III. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUÝ GIÁ QUA 87 NĂM CHIẾN ĐẤU, XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

Một là, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh.

Hai là, với tinh thần “Dân là gốc”, dựa vào dân, tất cả vì lợi ích của nhân dân, Đảng ta luôn biết phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức sáng tạo của nhân dân trong quá trình tiến hành đấu tranh cách mạng.

Ba là, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng để mãi mãi xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc Việt Nam.

                                                                       ***

Tự hào về Đảng quang vinh, về Bác Hồ vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và mỗi người dân càng thấy rõ hơn bao giờ hết trách nhiệm to lớn là tiếp tục làm cho Đảng ta mãi mãi xứng đáng là ngọn cờ tiên phong của giai cấp và của dân tộc, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, củng cố niềm tin yêu của nhân dân, nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để làm được điều đó, Đảng ta không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo về mọi mặt để đủ sức lãnh đạo cách mạng nước ta phát triển không ngừng. Đó không chỉ là yêu cầu tự thân của Đảng, mà còn là yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế./.


Các tin khác