Hành trình của chữ viết Việt Nam

Tiếng Việt – Mường được hình thành cách đây 3.000 năm là kết quả của quá trình cộng cư giữa người Môn – Khmer với người Tày cổ, hình thành một cộng đồng dân cư mới ở Tam giác châu thổ sông Hồng, sông Mã. Ngôn ngữ Việt – Mường chung gồm hai phương ngữ chính là tiếng “kẻ chợ” ở đồng bằng và tiếng miền ngược.

Khi nhà Hán đặt ách thống trị Giao Chỉ (chủ yếu ở đồng bằng Bắc bộ) vào năm 111 trước CN, cư dân đồng bằng Bắc bộ đã tiếp xúc với văn hóa Hán thông qua bộ máy cai trị của các quan thái thú. Với chính sách đồng hóa và nô dịch, họ đã mở trường dạy chữ Nho, bắt người Việt sống theo điển chế của Trung Hoa… Do ảnh hưởng của 1.000 năm đô hộ của người Trung Hoa mà tiếng “kẻ chợ” thành tiếng Việt và tiếng miền ngược trở thành tiếng Mường ngày nay.

Đến thế kỷ thứ 10, khi người Việt giành được độc lập và dựng nên quốc gia Đại Việt, thì tiếng việt trở thành tiếng phổ thông và tách khỏi tiếng mường. Suốt 10 thế kỷ độc lập, các triều đại quân chủ Việt Nam tự nguyện tiếp nhận mô hình văn hóa Hán một cách chủ động và thống nhất trong cả nước. Chữ Hán được dùng làm Quốc tự triều đình, trong thi cử, trong văn chương bác học. Đó là thứ chữ của giai tầng thống trị được suy tôn, trọng vọng và là chữ chính thống. Song song với nó, tiếng việt tồn tại trong quản đại quần chúng và là Quốc ngữ; do đó dẫn đến một nghịch lý: Quốc tự của triều đình không phải để ghi Quốc ngữ. Vì vậy, người Việt phải mượn ký tự của chữ Hán để ghi tiếng việt, đánh dấu sự ra đời của chữ Nôm. Đó là điều ngạc nhiên vì khi đó các nước láng giềng của ta như: Lào, Cam-Pu-Chia, Thái Lan…đều mượn chữ Ấn Độ để sáng tạo nên chữ viết của họ, nhờ vậy mà quốc tự và quốc ngữ của họ là một và được dùng đến bây giờ. (Hay trường hợp của Nhật Bản và Triểu Tiên lúc đầu chưa có chữ viết, Họ cũng phải mượn chữ Hán và cũng học văn hóa Khổng giáo. Họ cũng mượn ký tự của chữ Hán để sáng tạo nên chữ: “Nôm Nhật Bản”, “Nôm Triều Tiên” để ghi tiếng nói của dân tộc mình; nhưng khác với Việt Nam, các triều đại quân chủ của họ đã dùng chữ “Nôm” do mình sáng tạo nên làm Quốc tự thay thế cho chữ Hán và tạo nên sự thống nhất quốc tự và quốc ngữ là một, nên chữ của họ được dùng cho đến ngày nay).

Vì chữ Nôm để ghi tiếng việt, nên người Việt dùng để sáng tác thơ ca theo tiếng mẹ đẻ của mình, còn chữ Hán dùng để sáng tác thơ kiểu Trung Hoa (thơ Đường…). Đến thế kỷ 15 chữ Nôm đã tương đối hoàn chỉnh và có những tác phẩm viết bằng chữ Nôm còn lưu giữ cho đến ngày nay (Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi). Thế kỷ 17-18 được đánh dấu bởi sự bùng nổ của văn chương chữ Nôm với các tác phẩm truyện, thơ, ngụ ngôn nổi tiếng (như Truyện Kiều của Nguyễn Du, bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm (dịch từ bản Chinh Phụ Ngâm bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn), thơ Hồ Xuân Hương…)

Tiếng việt thời đó được hình thành hai lớp từ mượn Hán: Lớp việt hóa hoàn toàn: Ví dụ tiền, hàng, chợ, mùa,…và lớp Hán Việt là những từ mượn Hán và chưa được việt hóa triệt để: chẳng hạn ta có từ “núi” nên không thể nói “tôi lên sơn” nhưng lại nói “có cô sơn nữ”, “lên miền sơn cước, bài sơn ca…”. Hơn nữa như đã nói ở trên, do không phải là quốc tự nên chữ Nôm phát triển một cách tự phát. Do vậy chưa bao giờ thống nhất cách ghi, mỗi người có thể ghi khác nhau. Điều đó lý giải tại sao cùng một tác phẩm chữ Nôm lại có nhiều cách “luận” và hiểu khác nhau.

Với mục đích du nhập Thiên chúa giáo vào Việt Nam, vào thế kỷ 17 các giáo sĩ dòng tên châu Âu (Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Pháp) và được sự giúp đỡ của các giáo sĩ người Việt đã Latinh hóa chữ việt làm nên một kiểu chữ mới theo hệ Latinh, chữ: “Việt-Latinh” để truyền giáo, đồng thời tách người Việt khỏi khuôn khổ của chữ Vuông và văn hóa Khổng giáo. Chính vào địa vị không chính thức và không chuẩn hóa của chữ Nôm mà chữ “Việt-Latinh” dễ dàng thay thế. Hơn nữa chữ hệ La Tinh lại rất dễ đọc và tiện lợi, vì vậy lúc đầu các cụ đồ Nho hết sức sỉ vả, coi đó là thứ chữ con giun, con dế của Đế quốc. Sau này thấy nó tiện lợi, học nhanh dễ chuyển tải các nội dung yêu nước thì chính các cụ “Đông kinh nghĩa thục” đã phát động phong trào chống “Cựu học” cổ vũ “Tân học” phát động truyền bá chữ “Việt-Latinh” và văn minh châu Âu. Đến đầu thế kỷ 20 thì chữ “Việt-Latinh” đã gần như hoàn toàn thay thế chữ Hán, chữ Nôm và trở thành chữ Quốc ngữ.

Chữ Quốc ngữ thay chữ Hán, chữ Nôm có nhiều tiện ích, thiết nghĩ không cần nhắc lại. Nhưng nếu nhìn từ góc độ khác thì việc đó đã góp phần làm chia cắt, tạo một khoảng trống trong văn hóa Việt Nam. Vẫn còn đó kho tàng hơn hai ngàn năm Văn hiến viết bằng chữ Hán, chữ Nôm của ông cha ta để lại, nhưng thử hỏi xem lớp con cháu hôm nay còn mấy ai đọc được? Phải chăng đó cũng là dự cảm mà cách đây hơn hai trăm năm, đại thi hào Nguyễn Du đã cảm thán trong bài “Độc tiểu thanh ký” rằng: “Bất tri tam bách dư niên hậu. Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”!

(Bài của tác giả Phạm Đức Dương, tôi chỉ thêm thắt một ít và viết thêm đoạn cuối)


Các tin khác