Nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa với cách mạng, với đổi mới và phát triển qua các chặng đường lịch sử cách mạng Việt Nam

Nhìn lại hơn 91 năm qua, từ khi Đảng ta ra đời ngày 3-2-1930 cho đến nay, những quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa, phát triển văn hóa, con người đã từng bước được bổ sung, hoàn thiện một cách khoa học, cách mạng, nhân văn. Hệ thống các quan điểm này được nhân dân đồng tình, ủng hộ, bởi tất cả đều hướng đến mục tiêu vì hạnh phúc của nhân dân.

Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình vận động cách mạng, Đảng ta đặc biệt coi trọng văn hóa, nhất là xử lý mối quan hệ giữa văn hóa với dân tộc, với cách mạng, với thế giới, với đổi mới và phát triển. Năm 1943, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Đảng vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác, của Đảng ta và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã soạn thảo Đề cương Văn hóa Việt Nam (còn gọi Đề cương Văn hóa 1943). Lần đầu tiên Đảng Cộng sản Việt Nam đưa ra một cương lĩnh văn hóa, mà ở đó nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng đã thành công. Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm 1943) xác định xây dựng nền văn hóa Việt Nam (bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật), “sẽ do cách mạng dân chủ giải phóng thắng lợi mà được cởi mở xiềng xích và sẽ đuổi kịp văn hóa tân dân chủ thế giới”(1)khẳng định ba nguyên tắc: “Dân tộc hóa”; “Đại chúng hóa”; “Khoa học hóa”; sự nghiệp văn hóa là của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; khẳng định rõ tính chất nền văn hóa mới Việt Nam là “dân tộc về hình thức, tân dân chủ về nội dung”(2).

Cũng trong khoảng thời gian ấy, cuốn sổ ghi chép những bài thơ sáng tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây, Trung Quốc, sau này được tập hợp thành “Nhật ký trong tù” (1942 - 1943), ở trang cuối, Người viết về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”(3).

Sau ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 6 nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó có 3 nhiệm vụ cấp bách thuộc về văn hóa: Một là, cùng với diệt giặc đói phải diệt giặc dốt; hai là, phải giáo dục tinh thần cho nhân dân; ba là, thực hiện tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Đường lối văn hóa kháng chiến dần hình thành và được thể hiện rõ trong bức thư về “Nhiệm vụ văn hóa Việt Nam trong công cuộc cứu nước và xây dựng nước hiện nay” của Tổng Bí thư Trường Chinh gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 16-11-1946. Trong bộn bề công việc của Nhà nước chống lại giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất khai mạc ngày 24-11-1946 tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội. Theo kế hoạch, Hội nghị làm việc trong 3 ngày, nhưng do tình hình chiến sự căng thẳng tại Hải Phòng và đang có nguy cơ bùng nổ sớm ở Hà Nội nên đã bế mạc ngay sau một ngày làm việc khẩn trương, hết sức bổ ích. Hội nghị đón tiếp hơn 200 nhà hoạt động văn hóa tiêu biểu trong cả nước tham dự. Trong diễn văn khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nền văn hóa mới của Việt Nam phải lấy hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm cơ sở, phải học lấy những điều tốt đẹp của văn hóa nước ngoài, tạo ra nền văn hóa Việt Nam, sao cho văn hóa mới phải sửa đổi cho được tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập”(4). Người khẳng định: “Lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi”(5). Báo cáo của Ủy ban vận động văn hóa toàn quốc nêu bật những thành tích đã đạt được, đồng thời kêu gọi tăng cường đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau và đề ra nhiệm vụ của văn hóa Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị bầu Ủy ban Văn hóa toàn quốc gồm 15 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết. Thành công to lớn của Hội nghị đã đặt cơ sở quan trọng cho nền văn hóa mới ở Việt Nam.

 Tháng 3-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết tài liệu “Đời sống mới” giải thích rất dễ hiểu những vấn đề thiết thực trong đường lối, chủ trương về văn hóa của Đảng và Nhà nước ta.

Vẫn trong những năm tháng đầy gian khổ chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo tổ chức Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai, họp từ ngày 16 đến 20-7-1948 tại Việt Bắc. Trong thư gửi các đại biểu tham dự Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trong sự nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hóa gánh một phần rất quan trọng... Các nhà văn hóa ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”(6).

Ngày 18-7-1948, thay mặt Đảng ta, Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày báo cáo quan trọng tại Hội nghị với tên gọi “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam”. Báo cáo đã hệ thống hóa, cụ thể hóa và phát triển các quan điểm, nguyên tắc, phương châm của Đề cương Văn hóa Việt Nam (năm 1943) của Đảng, có giá trị như là Cương lĩnh văn hóa của Đảng thời kỳ kháng chiến, kiến quốc. Báo cáo nêu 6 nhiệm vụ chủ yếu của văn hóa: 1- Xác định mối quan hệ giữa văn hóa và cách mạng giải phóng dân tộc, cổ động văn hóa cứu quốc; 2- Xây dựng nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học, đại chúng mà khẩu hiệu thiết thực lúc này là dân tộc, dân chủ; 3- Tích cực bài trừ nạn mù chữ, mở đại học, trung học, cải cách việc học theo tinh thần mới, bài trừ cách dạy học nhồi sọ; 4- Giáo dục lại nhân dân, cổ động thực hành đời sống mới; 5- Phát triển cái hay trong văn hóa dân tộc, đồng thời bài trừ cái xấu xa hủ bại, ngăn ngừa sức thâm nhập của tàn dư văn hóa thực dân, phản động, học cái hay, cái tốt của văn hóa thế giới; 6- Hình thành đội ngũ trí thức mới đóng góp tích cực cho công cuộc kháng chiến kiến quốc và cho cách mạng Việt Nam.

Ba ngày sau Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ hai là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc được tổ chức từ ngày 23 đến 25-7-1948. Hơn 80 văn nghệ sĩ đại biểu cho các ngành văn học, sân khấu, âm nhạc, kiến trúc, mỹ thuật từ các nẻo đường kháng chiến đã về dự Hội nghị. Tại sự kiện quan trọng này, Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập, là sự tiếp nối tốt đẹp Hội Văn hóa cứu quốc được thành lập năm 1943.

Từ năm 1950 trở đi, mô hình xây dựng văn hóa kháng chiến có sự điều chỉnh, hình thức “hội nghị văn hóa toàn quốc” không còn được sử dụng nhưng đường lối, quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của văn hóa, văn nghệ tiếp tục được bổ sung, phát triển trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa (năm 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”(7). Người khẳng định rõ vai trò xung kích của văn hóa trong sứ mệnh giải phóng dân tộc. Văn hóa cùng với các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự... phải tạo thành những mặt trận có sức mạnh to lớn trong cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(8).

Văn kiện Đại hội III của Đảng (9-1960) nêu rõ đường lối xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng xác định văn hóa, tư tưởng là một cuộc cách mạng, tiến hành đồng thời gắn bó chặt chẽ với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật. Đường lối tiến hành cuộc cách mạng văn hóa, tư tưởng, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mang đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng tiếp tục được phát triển, bổ sung trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) xác định xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hóa mới, tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và sản phẩm văn hóa phản động, độc hại. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) chỉ rõ nền văn hóa mới mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Đại hội V của Đảng cũng trình bày sâu sắc nội hàm khái niệm “Con người mới xã hội chủ nghĩa” và đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm văn hóa”.

Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc không chỉ là thắng lợi của đường lối chính trị, quân sự đúng đắn mà còn là thắng lợi của chủ nghĩa yêu nước và những giá trị tinh thần cao đẹp của con người Việt Nam, văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh ưu điểm, thành tựu to lớn, quan trọng đã nêu của chặng đường mấy chục năm qua, công tác lãnh đạo, quản lý và thực hành văn hóa của ta cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém. Mục tiêu, nội dung cuộc cách mạng tư tưởng, văn hóa giai đoạn này cũng bị quy định bởi cuộc cách mạng quan hệ sản xuất mà tư tưởng chỉ đạo là triệt để xóa bỏ tư hữu, xóa bỏ bóc lột càng nhanh càng tốt, là đưa quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đi trước một bước, tách rời trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất. Chiến tranh cùng với cơ chế quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp và tâm lý bình quân chủ nghĩa đã làm giảm động lực phát triển văn hóa, giáo dục; kìm hãm năng lực tự do sáng tạo của văn nghệ sỹ và rộng ra là kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng, Nhà nước ta trăn trở tìm con đường đổi mới đất nước, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) khẳng định rõ quan điểm này. Từ đổi mới tư duy về kinh tế, chính trị, Đảng ta xác lập cơ sở lý luận và thực tiễn để đổi mới văn hóa. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1994, lĩnh vực văn hóa, văn nghệ được Đảng quan tâm sâu sắc hơn. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội lần thứ VII (6-1991) xác định “nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(9), là một trong sáu đặc trưng cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Như vậy, đến Cương lĩnh chính trị (1991) nhận thức về xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu phấn đấu, vừa là một nhiệm vụ trọng yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được khẳng định rõ hơn. Quan điểm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc tiếp tục được bổ sung, phát triển đầy đủ và phong phú hơn trong các văn kiện của Đảng.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”, lần đầu đưa khái niệm: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”(10). Nghị quyết khẳng định: “Nền văn hóa mà Đảng ta lãnh đạo toàn dân xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(11).

Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ra Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”(12). Đây không chỉ là một văn kiện mang tính đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hóa, mà còn thể hiện tư duy lý luận văn hóa một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới.

Từ nhận thức văn hóa bao gồm: tư tưởng, học thuật, nghệ thuật (Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943) đến việc mở rộng nội hàm văn hóa bao gồm: tư tưởng, đạo đức, lối sống, khoa học, giáo dục - đào tạo, thông tin đại chúng, văn học - nghệ thuật, tôn giáo, tín ngưỡng... Từ nền văn hóa mới với các tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng; dân tộc là hình thức, tân dân chủ là nội dung (năm 1943) đến xác định nền văn hóa của ta “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc” (năm 1982), đã phát triển lên bước mới khi khẳng định nền văn hóa của ta mang tính dân tộc, hiện đại, nhân văn (Hiến pháp năm 1992) xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998), xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại (Hiến pháp năm 2013). Từ quan niệm “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa thì mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội” (năm 1943), cách mạng tư tưởng - văn hóa là động lực (Đại hội IV) đến “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” (Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, năm 1998)... Từ ba nguyên tắc vận động cách tân văn hóa: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa (năm 1943) đến tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa làm cho thế giới quan Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước. “Tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và thẩm mỹ ngày càng cao”,...(13).

 

Như vậy, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã bổ sung và phát triển toàn diện, sâu sắc đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam phù hợp với thực tiễn đất nước trong giai đoạn mới, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại từ quan niệm về văn hóa, vị thế, vai trò của văn hóa đối với sự phát triển; từ quan điểm chỉ đạo đến mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Tiếp tục khẳng định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, Đại hội IX của Đảng (4-2001), yêu cầu “Mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “Xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa..., làm cho văn hóa thấm sâu vào từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị mới của con người Việt Nam... Nâng cao tính văn hóa trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân”(14). Để thúc đẩy sự phát triển của văn học, nghệ thuật, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 23 NQ/TW, ngày 16-6-2008, về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”. Nghị quyết chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học, nghệ thuật về đề tài, nội dung, loại hình, phương pháp sáng tác, sự tìm tòi, thể nghiệm, nâng cao chất lượng toàn diện nền văn học, nghệ thuật nước nhà”.

Đại hội lần thứ X của Đảng (4-2006) khẳng định: “Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế - xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”. Tinh thần cơ bản của Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X và XI của Đảng, đặc biệt, được nhấn mạnh trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011): Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong định hướng phát triển, Đảng ta khẳng định: Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển.

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của đất nước ta đã có chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trước những biến đổi nhanh chóng, đa dạng, phức tạp của đời sống trong nền kinh tế thị trường và bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, hoạt động văn hóa cũng bộc lộ không ít bất cập, hạn chế, yếu kém; phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước chậm được đổi mới; chúng ta chưa lường hết tính phức tạp và những tác động của mặt trái kinh tế thị trường đối với đời sống văn hóa. Tuy xác định “Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội” nhưng trên thực tế, trong suy nghĩ, hành động, không ít tổ chức, cá nhân còn quá thiên lệch về kinh tế, coi nhẹ văn hóa. Văn hóa vô hình trung bị thu hẹp phạm vi và bị “hành chính hóa”, không còn là một phạm trù tổng thể các giá trị vật chất, tinh thần. Xuất phát từ thực tiễn đất nước sau gần 30 năm đổi mới và phát triển, Hội nghị Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước” đã cho thấy, sự phát triển tư duy lý luận của Đảng, sự sáng tạo của Đảng trong nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, đặc biệt là yếu tố con người, trong xác định phương hướng, động lực và đặc thù của hoạt động xây dựng và phát triển văn hóa, con người; cho thấy hệ thống quan điểm sau đã kế thừa được các quan điểm cơ bản của Đảng về văn hóa ở các thời kỳ trước đó, đồng thời đã tiếp thu những tinh hoa lý luận về văn hóa, văn nghệ của thế giới theo tinh thần đổi mới của Đảng. Đại hội XII, XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, quan điểm của Đảng ta về phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học... Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”(15).

 

Trình diễn áo dài trong Chương trình Áo dài - Di sản văn hóa Việt Nam tại Di tích quốc gia đặc biệt Văn Miếu - Quốc Tử Giám _Nguồn: toquoc.vn

Cuối nhiệm kỳ khóa XII, Bộ Chính trị đã ra Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4-6-2020, về “Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó đã xác định các nội dung, định hướng lớn: Xây dựng và phát triển văn hóa, con người là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.     

Quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ của Kết luận số 76-KL/TW tiếp tục được khẳng định, nâng cao trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới. Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên”(16). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh “Tiếp tục đổi mới toàn diện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về văn hóa”(17).

Nhân dịp kỷ niệm 131 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2021), đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng có bài viết quan trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, trong đó nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con ngườichứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương laichứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường... Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”(18).

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn; chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội, kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những thành tựu, tinh hoa văn hóa nhân loại, phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, lành mạnh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người, với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ ngày càng cao. Chúng ta xác định: Con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh”(19).

Nhìn lại các chặng đường đã qua để thấy những tìm tòi, sáng tạo lý luận về văn hóa của Đảng gắn liền với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Các giá trị lý luận văn hóa thời kỳ đổi mới cần được nhận thức đầy đủ, nâng cao sức tỏa sáng để tiếp tục “soi đường cho quốc dân đi”, làm nền tảng tinh thần vững chắc cho đổi mới và phát triển./.


Các tin khác